Tác giả Xuân Quỳnh: Thi sĩ với khát vọng yêu cháy bỏng 

Aretha Thu An
Tác giả Xuân Quỳnh (1942 - 1988) tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, là một nữ nhà thơ tiêu biểu trong làng thơ Việt Nam. Thơ của Xuân Quỳnh không chỉ dừng lại ở câu chữ mà còn là tiếng lòng của một tâm hồn đa cảm, luôn hướng về những điều đẹp đẽ trong cuộc sống.

Giới thiệu về tác giả Xuân Quỳnh

Sinh ra trong một gia đình không mấy yên ấm, nhưng đổi lại Xuân Quỳnh đã sớm bộc lộ tình yêu đối với nghệ thuật và cuộc sống qua từng vần thơ. Dưới đây là phần giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh thông qua cuộc đời và sự nghiệp của bà.

Tiểu sử

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam thế kỷ 20. Bà sinh năm 1942 tại làng La Khê, hiện nay là quận Hà Đông, Hà Nội, trong một gia đình có truyền thống văn chương. Cha của bà là nhà văn Nguyễn Khải và mẹ là Nguyễn Thị Ngọc Hoan, cũng là một nhà văn nổi tiếng. Bà có hai anh chị em, anh trai là nhà thơ Nguyễn Kỳ và em gái là nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

Tháng 2 năm 1955, Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn Công Nhân Dân Trung Ương, nơi bà được đào tạo thành diễn viên múa. Trong sự nghiệp múa của mình, bà đã nhiều lần đi biểu diễn ở nước ngoài và tham dự Đại hội Thanh niên Sinh viên Thế giới năm 1962 tại Áo.

Xuân Quỳnh học tại Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khóa I) của Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1962 đến 1964. Sau khi tốt nghiệp, bà làm việc cho báo Văn nghệ và báo Phụ nữ Việt Nam. Bà trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1967 và là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.

Năm 2017, Xuân Quỳnh được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng nghệ thuật cao quý nhất của Việt Nam, để vinh danh những đóng góp to lớn của bà cho nền văn học nước nhà.

Sự nghiệp

Tháng 2/1955, Xuân Quỳnh gia nhập Đoàn Văn công nhân dân TW và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã nhiều lần đi Nhật Bản để làm phim và tham dự Đại hội thanh niên sinh viên lần thứ nhất thế giới năm 1959 tại Vienna (Áo).

Từ năm 1962 - 1964, Xuân Quỳnh học tại Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp, bà làm việc ở báo Văn nghệ và báo Phụ nữ Việt Nam. Xuân Quỳnh là hội viên báo Văn Nghệ từ năm 1967 và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.

Năm 1973, bà kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ, sau khi ly hôn với một nhạc công của Đoàn Văn công nhân dân Trung ương. Từ năm 1978 đến khi qua đời, Xuân Quỳnh là biên tập viên của Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

Vợ chồng Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ
Vợ chồng Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ

Dấu ấn trong văn học

Nhiều bài thơ nổi tiếng của Xuân Quỳnh như Hoa cỏ may, Thuyền và biển, Sóng (viết năm 1967, được in trong tập Hoa dọc chiến hào năm 1968), Tự hát, Nói cùng anh,...

Bên cạnh đó, các bài thơ Tiếng gà trưa, Sóng, Chuyện cổ tích về loài người được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt nam. Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu còn phổ nhạc thành công các bài thơ: Thơ tình cuối mùa thu của Xuân Quỳnh hay Thuyền và biển (4/1963).

Giải thưởng đạt được

Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật vào năm 2001.

Ngày 30/3/2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang ký QĐ số 602 chính thức tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật dành cho cố nhà thơ.

Xuân Quỳnh (1942 - 1988) tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh (1942 - 1988) tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh

Phong cách sáng tác

Phong cách sáng tác của Xuân Quỳnh được đánh giá là vô cùng sáng tạo và độc đáo. Bà thường xuyên sử dụng những hình ảnh đặc trưng của miền Bắc và cách diễn đạt tình cảm của bà rất sâu sắc và chân thành. Chủ đề trong thơ của Xuân Quỳnh khá đa dạng, những kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, hiện thực xã hội cho đến các sự kiện trong đời sống. Dù chủ đề có khác nhau, điểm chung là tính cách hướng nội và nội tâm của bà.

Thơ của Xuân Quỳnh thường sử dụng những hình ảnh tươi sáng, ngây thơ và lãng mạn. Bà tạo ra những hình ảnh sắc nét, đầy tầm quan trọng và ý nghĩa trong từng câu thơ. Thơ của bà giàu cảm xúc, phản ánh những cung bậc cảm xúc khác nhau như hạnh phúc đắm say hay đau khổ suy tư. Xuân Quỳnh viết với sự đằm thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ, vừa làm vợ, làm mẹ. Các thể loại thơ mà bà sử dụng bao gồm thơ tự do, thơ trữ tình và thơ chính trị.

Ngoài thơ, Xuân Quỳnh còn có những tác phẩm kịch và phê bình văn học với phong cách sắc bén, nhạy cảm và chất phác. Tất cả những tác phẩm của bà đều kết hợp giữa nghệ thuật và nhân văn, truyền tải những thông điệp đầy ý nghĩa.

Các tác phẩm của Xuân Quỳnh 

Khi giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh, bà không chỉ là một nhà thơ tình mà còn là một cây bút tài năng với nhiều thể loại khác nhau. Từ thơ ca, truyện thiếu nhi đến kịch và phê bình văn học, bà đều để lại những dấu ấn sâu sắc.

Sóng

Bài thơ "Sóng" được sáng tác vào năm 1967 trong chuyến đi thực tế của Xuân Quỳnh ở vùng biển Diêm Điền, thuộc tỉnh Thái Bình. Đây là một tác phẩm đặc sắc viết về tình yêu, thể hiện rất tiêu biểu cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh. Bài thơ "Sóng" sau đó được in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào.

Xuân Quỳnh đã khéo léo sử dụng hình ảnh sóng biển để diễn tả những cung bậc cảm xúc của tình yêu, từ những dao động nhẹ nhàng đến những cơn bão lòng mãnh liệt. Qua đó, bà đã gửi gắm những khát vọng, niềm tin và tình cảm chân thành của người phụ nữ trong tình yêu.

Sơ đồ tư duy bài thơ Sóng
Sơ đồ tư duy bài thơ Sóng

Tự hát

Bài thơ "Tự hát" được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1984 và in trong tập thơ cùng tên. Đây được đánh giá là một trong những thi phẩm xuất sắc, mang đậm phong cách của phụ nữ nói chung và của Xuân Quỳnh nói riêng.

Bài thơ "Tự hát" của Xuân Quỳnh không chỉ là một khúc ca tự sự về tình yêu mà còn là một hành trình tự nhận thức giá trị của tình yêu qua những lời thơ sâu sắc và chân thành. Nhan đề “Tự hát” thể hiện trạng thái tâm lý hưng phấn, một tâm hồn thơ được cất lên về bản lĩnh đầy tự tin, một trái tim yêu say đắm và một lời ngỏ về tình yêu trọn vẹn hiến dâng. Bài thơ là lời bày tỏ tha thiết, đắm say những tâm nguyện khi yêu của một người phụ nữ hồn hậu, chân thành.

Lời bài thơ Tự hát
Lời bài thơ Tự hát

Thuyền và biển

Bài thơ "Thuyền và biển" của nhà thơ Xuân Quỳnh được in trong tập Chồi biếc xuất bản năm 1963. Sau đó, vào năm 1981, bài thơ đã được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc, biến thành một ca khúc nổi tiếng. Với thể thơ 5 chữ, "Thuyền và biển" mang trong mình những giai điệu khi trầm lắng, chậm rãi, khi dạt dào cảm xúc, phản ánh sức sống mãnh liệt của biển khơi. Thi phẩm này đã thực sự trở thành một bài thơ tỏ tình phổ biến cho các đôi lứa đang yêu vào thời bấy giờ.

Bên cạnh đó, bà đã sáng tác nhiều tác phẩm thơ và văn xuôi, trong đó nổi bật nhất là:

  • "Tơ tằm - Chồi biếc" (1963) với 18 bài thơ
  • "Hoa dọc chiến hào" (1968) gồm 28 bài thơ
  • "Gió Lào, cát trắng" (1974).
  • "Lời ru trên mặt đất" (1978) với 34 bài thơ
  • "Cây trong phố - Chờ trăng" (1981)
  • "Sân ga chiều em đi" (1984)
  • "Tự hát" (1984)
  • "Hoa cỏ may" (1989) với 18 bài thơ.

Xuân Quỳnh cũng dành nhiều tâm huyết cho việc viết cho thiếu nhi với các tác phẩm như:

  • "Mùa xuân trên cánh đồng" (1981)
  • "Bầu trời trong quả trứng" (1982) gồm 32 bài thơ và 16 truyện
  • "Truyện Lưu Nguyễn" (1985)

Những nhận định về Xuân Quỳnh 

Những tác phẩm nghệ thuật của Xuân Quỳnh không chỉ làm giàu thêm cho kho tàng văn học Việt Nam mà còn để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng đồng nghiệp cũng như các nhà phê bình văn học.

Nhà văn Ngô Thảo từng nhận xét: “Tôi tin rằng, không phải 30 năm, mà hi vọng rằng thế hệ sau vẫn tiếp tục tìm thấy ở trong tác phẩm của Xuân Quỳnh tình yêu cuộc sống, yêu thêm con người, yêu thiên nhiên đất nước để làm cho cuộc sống đẹp hơn”.

Nhà phê bình văn học Lưu Khánh Thơ (em chồng nhà thơ Xuân Quỳnh) cũng chia sẻ: “Đọc thơ Xuân Quỳnh, tôi không có cảm giác như tác giả cố ý làm thơ, thơ của chị tự nhiên, nhẹ nhàng, là tiếng nói chân thật từ sâu trong tâm hồn chứ không gượng ép bản thân phải sáng tác về những triết lý khô khăn. Vì thế, giọng thơ của chị thủ thỉ tâm tình, dạt dào những đợt sóng tình cảm, lúc thì nhẹ nhàng vỗ về, lúc lại cuồn cuộn dâng trào”.

Tầm ảnh hưởng của Xuân Quỳnh đến thế hệ sau

Xuân Quỳnh, một trong những nữ sĩ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại, bà để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả, đặc biệt là thế hệ trẻ. Thơ Xuân Quỳnh, với những câu chữ mộc mạc, chân thành và đầy cảm xúc, đã và đang tiếp tục truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ sau.

Những ảnh hưởng sâu sắc của Xuân Quỳnh có thể kể đến:

  • Tình yêu đời thường, giản dị: Thơ Xuân Quỳnh thường tập trung vào những tình cảm đời thường, gần gũi như tình yêu đôi lứa, tình mẫu tử, tình bạn... Qua những câu thơ ấy, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống, của những điều nhỏ nhặt xung quanh.
  • Giọng điệu tự nhiên, chân thật: Xuân Quỳnh đã phá vỡ những rào cản về ngôn ngữ thơ, đưa vào thơ những từ ngữ đời thường, những suy nghĩ, cảm xúc thật của con người. Điều này đã tạo nên một phong cách thơ mới mẻ, gần gũi với độc giả.
  • Khơi dậy những cảm xúc sâu kín: Thơ Xuân Quỳnh chạm đến những góc khuất trong tâm hồn mỗi người, khơi dậy những cảm xúc yêu thương, nỗi nhớ, niềm đau... qua đó giúp độc giả hiểu hơn về bản thân và cuộc sống.
  • Gương sáng cho các thế hệ nhà thơ trẻ: Xuân Quỳnh là một tấm gương sáng cho các thế hệ nhà thơ trẻ, đặc biệt là các nữ sĩ. Bà đã chứng minh rằng phụ nữ hoàn toàn có thể viết thơ hay, thơ giàu cảm xúc và có sức sống lâu bền.
Xuân Quỳnh là một tấm gương sáng cho các thế hệ nhà thơ trẻ
Xuân Quỳnh là một tấm gương sáng cho các thế hệ nhà thơ trẻ

Trong nhịp sống hối hả của thời hiện đại, thơ của Xuân Quỳnh như một làn gió mát dịu, giúp chúng ta tìm về những giá trị đích thực của cuộc sống. Những bài thơ tình yêu theo phong cách thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn làm rung động trái tim của những người trẻ, khơi dậy niềm tin vào tình yêu và hạnh phúc.