Tác giả Nguyễn Dữ: Cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm nổi tiếng

Aretha Thu An
Ngày nay, khi nhắc đến tác giả Nguyễn Dữ, người ta không chỉ nhớ đến một nhà văn tài ba mà còn nhớ đến một con người có tấm lòng nhân đạo sâu sắc, luôn hướng đến cái đẹp, cái thiện trong cuộc sống. Tác phẩm của ông không chỉ có giá trị hiện thực mà còn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ nhà văn sau này.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ

Nguyễn Dữ (khoảng thế kỷ XVI) là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam. Tuy cuộc đời và thân thế của ông còn nhiều bí ẩn nhưng những tác phẩm của ông, đặc biệt là tập “Truyền kỳ mạn lục”, đã khẳng định vị trí của ông trong lịch sử văn học dân tộc.

Tiểu sử Nguyễn Dữ 

Nguyễn Dữ năm sinh năm mất chưa rõ, là danh sĩ thời Lê sơ, đồng thời là nhà văn nổi tiếng với tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục". Quê quán của ông ở xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương.

Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, Nguyễn Dữ thuở nhỏ chăm chỉ học tập, đọc nhiều sách vở, ôm ấp chí hướng theo đuổi nghiệp văn chương. Sau khi đỗ Hương tiến (Cử nhân), ông từng làm quan cho nhà Mạc, rồi theo nhà Lê giữ chức Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Tuy nhiên, chỉ sau một năm, do bất mãn với thời cuộc, ông lấy cớ phụng dưỡng mẹ già mà cáo quan, lui về sống ẩn dật ở núi rừng Thanh Hóa. Từ đó, ông ít khi trở lại chốn thị thành. Nguyễn Dữ qua đời tại Thanh Hóa.

Theo truyền thuyết dân gian lưu truyền qua nhiều thế kỷ, Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm) và là bạn học của Phùng Khắc Khoan. Tuy nhiên, hiện nay, giả thuyết này đang được giới nghiên cứu văn học lịch sử đặt dấu hỏi nghi ngờ do thiếu căn cứ xác thực từ các tài liệu lịch sử.

Nguyễn Dữ là một nhà văn nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam
Nguyễn Dữ là một nhà văn nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam

Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Dữ

Nguyễn Dữ chỉ có một tác phẩm duy nhất là "Truyền kỳ mạn lục" (Ghi chép tản mạn những chuyện kỳ lạ được lưu truyền). Quyển sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, với lời bình của tác giả hoặc người có cùng quan điểm ở cuối mỗi truyện.

"Truyền kỳ mạn lục" là sáng tác văn học được Nguyễn Dữ gia công hư cấu, sáng tạo và trau chuốt, không chỉ đơn thuần là ghi chép. Qua tác phẩm, người đọc cảm nhận được số phận bi thảm của những con người nhỏ bé trong xã hội hay những bi kịch về tình yêu, trong đó người phụ nữ thường chịu thiệt thòi. Tác phẩm thể hiện tinh thần dân tộc, niềm tự hào về nhân tài và văn hóa Việt Nam, đề cao đạo đức nhân hậu, thủy chung, đồng thời khẳng định quan điểm sống "lánh đục về trong" của tầng lớp trí thức ẩn dật thời bấy giờ.

Tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục" có giá trị hiện thực, nhân đạo cao, là một tuyệt tác của thể loại truyền kỳ. Bộ sách sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng và nhận được đánh giá cao trong số các tác phẩm truyền kỳ ở các nước đồng văn.

Phong cách sáng tác của Nguyễn Dữ 

Nguyễn Dữ được mệnh danh là "bậc thầy của thể loại truyện kỳ" bởi phong cách sáng tác độc đáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và hư ảo, giữa yếu tố dân gian và sáng tạo nghệ thuật.

Truyện của Nguyễn Dữ thường xuất hiện những chi tiết huyền bí, ly kỳ, tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc. Ví dụ như trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương đã hóa thành tiên nữ để gặp chồng; trong Chuyện chàng trai hát, chàng trai hát đã được vua thủy cung ban cho phép thuật biến hóa.

Bên cạnh đó, những tác phẩm của Nguyễn Dữ thường đề cập đến những phong tục tập quán của người Việt Nam thời bấy giờ, tạo nên sự gần gũi, chân thực cho người đọc. Như trong Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả miêu tả chi tiết tục "tẩy trần" trước khi vợ chồng đi xa; trong Chuyện chàng trai hát, tác giả miêu tả cảnh sinh hoạt của người dân làng chài.

Đặc biệt, Nguyễn Dữ luôn dành sự trân trọng, yêu thương cho những người phụ nữ đức hạnh, nết na. Các nhân vật nữ trong truyện của ông đều mang vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn cao quý, thế nhưng số phận của họ lại bi đát, oan nghiệt. Họ mong muốn có được cuộc sống bình yên, hạnh phúc bên gia đình. Tuy nhiên, ước mơ của họ thường không thể thành hiện thực vì những oan trái, bất công của xã hội.

Nhìn chung, phong cách sáng tác của Nguyễn Dữ có sự kết hợp hài hòa giữa thực - hư, giữa sáng tạo và truyền thống. Nhờ vậy, tác phẩm của ông luôn có sức hấp dẫn đặc biệt, thu hút người đọc qua nhiều thế hệ.

Hình tượng người phụ nữ hiền thục, đoan trang nhưng số phận bất hạnh trong các sáng tác của Nguyễn Dữ
Hình tượng người phụ nữ hiền thục, đoan trang nhưng số phận bất hạnh trong các sáng tác của Nguyễn Dữ

Tác phẩm tiêu biểu - “Truyền Kỳ Mạn Lục” 

Như đã đề cập ở trên, “Truyền kỳ mạn lục” là tác phẩm duy nhất của tác giả Nguyễn Dữ, được sáng tác bằng chữ Hán theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca. Mỗi câu chuyện trong “Truyền kỳ mạn lục” đều thể hiện một quan điểm chính trị, một triết lý nhân sinh, một ý tưởng đạo đức sâu sắc. Tác phẩm không chỉ phản ánh mong muốn của tác giả mà còn là tiếng nói của người dân mong muốn sự công bằng, bác ái,...

Chương 1: Câu chuyện ở đền Hạng Vương

Chương 2: Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu

Chương 3: Chuyện cây gạo

Chương 4: Chuyện gã trà đồng giáng sinh

Chương 5: Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây

Chương 6: Chuyện đối tụng ở Long cung

Chương 7: Chuyện nghiệp oan của Đào Thị

Chương 8: Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

Chương 9: Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên

Chương 10: Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào

Chương 11: Chuyện yêu quái ở Xương Giang

Chương 12: Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na

Chương 13: Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều

Chương 14: Chuyện nàng Thúy Tiêu

Chương 15: Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang

Chương 16: Chuyện người con gái Nam Xương

Chương 17: Chuyện Lý tướng quân

Chương 18: Chuyện Lệ Nương

Chương 19: Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa

Chương 20: Chuyện tướng Dạ Xoa

Sách gồm 20 truyện, mỗi truyện đều có lời bình của tác giả hoặc của người cùng quan điểm với tác giả (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký). Điển hình như, trong truyện "Chức phán sự đền Tản Viên," kể về Ngô Tử Văn cương trực, không chịu khuất phục trước sự gian tà, Nguyễn Dữ đã bình luận về nhân cách kẻ sĩ: "Than ôi, người ta vẫn nói cứng quá thì gẫy. Nhưng kẻ sĩ chỉ lo không cứng được, còn gẫy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước sẽ gẫy mà chịu đổi cứng ra mềm?...".

Hay trong lời bình truyện "Đối đáp của người tiều phu núi Nưa," ông mượn câu chuyện nhà Hồ để đề cập đến đạo trị nước: "Bậc làm vua chúa cần lấy việc giữ ngay lòng mình để làm cái gốc chính cho triều đình; cần sửa cho trăm quan ngay thẳng, sửa cho muôn dân ngay thẳng, đừng để các kẻ ẩn dật nơi rừng núi phải bàn ra, nói vào, là tốt hơn cả."

Nguyễn Dữ dám vượt qua những ràng buộc khắt khe của ý thức hệ thời đó, khiến cho văn chương của ông trở nên phóng khoáng, đặc biệt khi viết về tình yêu. Ông tỏ ra táo bạo và phóng túng khi miêu tả những mối tình đắm say, thể hiện cả niềm vui, nỗi buồn và sự đau khổ của con người một cách sâu sắc.

Về nghệ thuật, tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” được đánh giá cao bởi nghệ thuật xây dựng tình tiết, miêu tả tâm lí nhân vật, sử dụng ngôn ngữ trau chuốt, giàu sức gợi. Nguyễn Dữ vượt xa các tác giả thời trước, vốn ít chú trọng đến đời sống riêng tư, tính cách nhân vật.

Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?) đánh giá Truyền kỳ mạn lục là "thiên cổ kỳ bút". Các nhà nghiên cứu văn học đánh giá Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo cao, là một tuyệt tác của thể loại truyền kỳ Việt Nam.

“Truyền kỳ mạn lục” là tác phẩm duy nhất của tác giả Nguyễn Dữ
“Truyền kỳ mạn lục” là tác phẩm duy nhất của tác giả Nguyễn Dữ

Một số nhận định về tác giả Nguyễn Dữ 

Nguyễn Dữ được nhiều nhà văn, nhà phê bình văn học đánh giá cao vì những đóng góp của ông cho văn học trung đại Việt Nam. Dưới đây là một số nhận định tiêu biểu:

Tiến sĩ Vũ Khâm Lân đã tôn vinh tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” của ông là “thiên cổ kỳ bút”, tức là một tác phẩm kỳ diệu của ngàn đời, thể hiện sự sáng tạo và tài năng đặc biệt trong việc viết các truyện kỳ lạ bằng chữ Hán.

Nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng Hàm cũng đánh giá “Truyền kỳ mạn lục” là một tác phẩm đặc sắc, qua đó thể hiện rõ quan điểm chính trị, thái độ nhân sinh và ý tưởng đạo đức của Nguyễn Dữ. Ông cho rằng Nguyễn Dữ đã thành công trong việc phản ánh thực trạng xã hội và bày tỏ thái độ của mình qua các câu chuyện.

Nhà văn Nguyễn Trí trong “Trí Khùng tự truyện” nhấn mạnh rằng văn chương của Nguyễn Dữ mang đậm cảm hứng nhân văn, khiến con người hướng thiện. Ông cho rằng các tác phẩm của Nguyễn Dữ không chỉ có giá trị văn học mà còn mang lại giá trị đạo đức và nhân văn sâu sắc.

Những nhận định này đều cho thấy Nguyễn Dữ là một nhà văn tài năng, sáng tạo và có tầm ảnh hưởng lớn đối với văn học Việt Nam.

Tầm ảnh hưởng của Nguyễn Dữ đến thế hệ sau

Nguyễn Dữ, với tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục", đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong nền văn học Việt Nam, ảnh hưởng lớn đến nhiều thế hệ sau này. Ông được coi là người tiên phong trong thể loại truyện truyền kỳ tại Việt Nam, mở đường cho sự phát triển của thể loại này trong các thời kỳ văn học tiếp theo. Phong cách viết kết hợp giữa yếu tố kỳ ảo và hiện thực của Nguyễn Dữ không chỉ tạo ra những câu chuyện hấp dẫn mà còn truyền tải những thông điệp nhân sinh sâu sắc, phản ánh xã hội và đạo đức con người.

Những giá trị nhân văn, triết lý sống và phê phán xã hội trong tác phẩm của ông trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn, nhà thơ sau này, giúp họ hiểu rõ hơn về trách nhiệm của người cầm bút đối với xã hội và con người. Bên cạnh đó, sự sáng tạo cùng với tài năng của Nguyễn Dữ còn góp phần định hình nền văn học Việt Nam, khuyến khích các thế hệ sau tiếp tục phát triển văn học dân tộc, đồng thời duy trì, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống quý báu.

Tượng danh sĩ Nguyễn Dữ
Tượng danh sĩ Nguyễn Dữ

Nguyễn Dữ là một nhà văn, nhà thơ tài ba của văn học trung đại Việt Nam. Tuy chỉ có một tác phẩm duy nhất là “Truyền kỳ mạn lục”, ông vẫn khẳng định vị trí của mình trong lịch sử văn học dân tộc. Với ngòi bút sắc sảo, giàu cảm xúc, Nguyễn Dữ đã thể hiện những quan điểm nhân sinh cao cả, đề cao đạo đức, công lý và tình yêu thương con người. Tác phẩm của ông không chỉ có giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, vượt qua ranh giới thời đại, vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay.