Xuân Diệu: Tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của ông hoàng thơ tình

Aretha Thu An
Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình nổi bật với các tác phẩm chứa đựng khát khao mãnh liệt về tình yêu và cuộc sống. Phong cách thơ đặc sắc của ông đã mang đến một làn gió mới cho nền thơ ca Việt Nam. Là một tác giả đa tài, ông đã góp phần làm phong phú và hiện đại hóa nền thơ ca đương đại.

Giới thiệu về Xuân Diệu

Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ luôn mang đến sự tươi mới, yêu đời mãnh liệt. Cùng tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của ông dưới đây.

Tiểu sử của tác giả Xuân Diệu

Xuân Diệu tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2/2/1916, quê tại huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng được sinh ra ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, đây là quê quán của mẹ ông. Cha ông, Ngô Xuân Thọ là một tú tài Hán học, còn mẹ ông là Nguyễn Thị Hiệp. Xuân Diệu sống tại Tuy Phước từ nhỏ đến năm 11 tuổi.

Xuân Diệu lớn lên trong một gia đình coi trọng học vấn; cha ông là thầy giáo và đã góp phần đào tạo ông một cách bài bản và quy củ. Ngay từ nhỏ, Xuân Diệu đã được học chữ Nho và chữ Quốc ngữ. Sau đó, ông tiếp tục học tại các trường danh tiếng như trường Bưởi ở Hà Nội và trường Khải Định ở Huế.

Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ luôn mang đến sự tươi mới, yêu đời mãnh liệt
Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ luôn mang đến sự tươi mới, yêu đời mãnh liệt

Cuộc đời của nhà thơ Xuân Diệu

Năm 1958, nhà thơ Xuân Diệu kết hôn với nhà báo Bạch Diệp, nhờ sự mai mối của ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân. Lúc đó, Xuân Diệu đã ngoài 40 tuổi, còn Bạch Diệp 29 tuổi.

Mặc dù có sự chênh lệch tuổi tác nhưng tình yêu và đam mê nghệ thuật đã gắn kết họ. Tuy nhiên cuộc hôn nhân của họ không kéo dài lâu; hai người đã ly hôn và không có con chung. Xuân Diệu sống độc thân cho đến khi qua đời vào năm 1985.

Sự nghiệp văn chương của Xuân Diệu đạt bước đột phá khi ông gặp gỡ nhà báo Bạch Diệp
Sự nghiệp văn chương của Xuân Diệu đạt bước đột phá khi ông gặp gỡ nhà báo Bạch Diệp

Sự nghiệp của Xuân Diệu

Vào năm 1927, Xuân Diệu bắt đầu học tập tại Quy Nhơn. Năm 1936-1937, ông chuyển đến Huế và hoàn thành chương trình tú tài. Sau đó, vào năm 1937, Xuân Diệu lên Hà Nội theo học tại trường Luật và đồng thời viết báo, gia nhập nhóm Tự Lực Văn Đoàn, một trong những tổ chức văn nghệ nổi bật ở miền Bắc thời bấy giờ.

Sau khi tốt nghiệp tú tài và cử nhân Luật, năm 1943, Xuân Diệu đỗ vào chức vụ tham tá Thương chính và làm việc tại Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Bên cạnh công việc nhà nước, ông còn dạy học tư. Một năm sau, ông quyết định rời bỏ công việc chính thức và chuyển về Hà Nội, sống bằng nghề viết văn.

Năm 1944, ông tích cực tham gia các phong trào cách mạng, bắt đầu với phong trào Việt Minh và sau đó gia nhập Đảng Cộng Sản. Sau thành công của Cách mạng tháng Tám 1945, Xuân Diệu tiếp tục hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc, giữ vai trò thư ký cho tạp chí Tiền Phong của Hội.

Xuân Diệu được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam vào năm 1948. Từ năm 1957 đến 1985, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam qua các khóa 1, 2, 3. Ông còn được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng hòa Dân chủ Đức bổ nhiệm làm Viện sĩ thông tấn vào năm 1983.

Xuân Diệu qua đời vào ngày 18 tháng 12 năm 1985 ở tuổi 69. Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 1996. Để vinh danh và tưởng nhớ, nhiều tuyến đường và trường học trên khắp cả nước đã được đặt theo tên ông.

Xuân Diệu qua đời vào ngày 18 tháng 12 năm 1985 ở tuổi 69
Xuân Diệu qua đời vào ngày 18 tháng 12 năm 1985 ở tuổi 69

Phong cách sáng tác thơ Xuân Diệu

Xuân Diệu thể hiện phong cách sáng tác đặc biệt không thể trộn lẫn, kết hợp tinh tế giữa văn xuôi và thơ, mỗi thể loại đều mang nét đặc trưng của nhau. Cụ thể:

  • Thơ của Xuân Diệu ưa chuộng việc phản ánh hiện thực đồng thời đề cao cái tôi cá nhân.
  • Tác phẩm của Xuân Diệu sắc sảo, tinh tế, không chỉ hoa mỹ trong câu từ mà còn xuất phát từ góc nhìn thực tế và cảm xúc tự nhiên.
  • Phong cách thơ của Xuân Diệu đôi khi tạo nên sự thách thức cho người đọc trong việc hiểu rõ ý đồ của tác giả. Mỗi câu chữ ẩn chứa một mâu thuẫn sâu sắc, qua quá trình nghiền ngẫm mới có thể cảm nhận hết được.
  • Chủ đề mà ông thường khai thác nhiều nhất là tình yêu, bao gồm cả tình yêu đôi lứa lẫn tình cảm đối với thiên nhiên và sự chuyển động của đất trời.
  • Tác phẩm của ông có lúc tràn đầy sức sống và lạc quan nhưng cũng có khi trầm lắng, khiến người đọc phải suy tư và chiêm nghiệm.
  • Ông luôn khẳng định cái “tôi” và tính cá nhân trong từng tác phẩm của mình.
Xuân Diệu thể hiện phong cách sáng tác đặc biệt không thể lẫn lộn
Xuân Diệu thể hiện phong cách sáng tác đặc biệt không thể lẫn lộn

Các tác phẩm của Xuân Diệu

Là một trong những nhà thơ mới nhất trong phong trào thơ mới, Xuân Diệu mang đến một phong cách thơ độc đáo với ngôn từ sáng tạo và lôi cuốn. Đọc thơ của Xuân Diệu, độc giả sẽ dễ dàng bị cuốn hút và khó quên. Dưới đây là những bài thơ hay của ông.

Vội vàng - In trong tập Thơ thơ (1938)

Vội vàng” là một trong những tác phẩm nổi bật của nhà thơ Xuân Diệu và đã được đưa vào chương trình học Ngữ văn THPT. Bài thơ này là sự kết tinh vẻ đẹp của thi nhân trước cách mạng, thể hiện hai nội dung chính: lý do cần sống vội vàng và cách thức biểu hiện của lối sống này.

Thông điệp của bài thơ khuyến khích sống mãnh liệt, trân trọng từng khoảnh khắc của cuộc đời và đặc biệt là tận hưởng tuổi trẻ với nhiệt huyết, dám theo đuổi đam mê và thử thách. Với tài năng sáng tạo và kỹ năng viết văn tinh tế, Xuân Diệu đã kết hợp nhuần nhuyễn cảm xúc và lý luận, sử dụng giọng điệu say mê và sáng tạo độc đáo trong ngôn từ và hình ảnh thơ.

“Vội vàng” là một trong những tác phẩm nổi bật của nhà thơ Xuân Diệu
“Vội vàng” là một trong những tác phẩm nổi bật của nhà thơ Xuân Diệu

Yêu - In trong tập Thơ thơ (1938)

Khi nhắc đến những bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Diệu, không thể không đề cập đến tác phẩm “Yêu”. Bài thơ diễn tả nỗi buồn và đau khổ của tình yêu đơn phương khi người yêu chỉ nhận lại sự thờ ơ, phụ tình và sự lặng im khó hiểu. Tình yêu đơn phương chính là nỗi buồn thấm sâu trong tâm hồn. Câu thơ mở đầu “Yêu là chết ở trong lòng một ít” gợi lên sự khao khát mãnh liệt trong tình yêu. Tình yêu là trải nghiệm sâu sắc của trái tim, nơi chúng ta trao đi những hơi ấm, yêu thương và cả một phần sinh mệnh của chính mình.

Dại khờ - In trong tập Gửi hương cho gió (1945)

“Dại khờ” là một bài thơ trích từ tập “Gửi hương cho gió”, thể hiện nỗi khổ do thái độ, quan điểm và cách ứng xử của con người. Thi nhân đã vận dụng các quan niệm Phật giáo để trình bày thế giới nhân sinh với chuỗi nỗi khổ liên tục: Khổ khổ, hành khổ, hoại khổ. Theo tác giả, nỗi khổ do tình yêu đơn phương chính là nỗi khổ lớn nhất và dai dẳng nhất trong đời người. Bài thơ chứa đựng mạch cảm xúc phong phú, với những suy tư sâu sắc, sự hững hờ và triết lý tinh tế. Những ai đang yêu sẽ cảm nhận rõ ràng hơn ý nghĩa và cảm xúc sâu xa trong từng câu chữ của “Dại khờ”.

Vì sao - In trong tập Thơ thơ (1938)

“Vì sao” là một trong những chuỗi bài thơ xuất sắc về tình yêu dưới ánh nắng chiều. Trong bài thơ, buổi chiều hẹn hò dưới ánh nắng vàng, cô gái hỏi “vì sao” với nụ cười dịu dàng đã làm thỏa mãn niềm khao khát của người yêu. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, bài thơ đã chất chứa những câu hỏi sâu lắng về những mối liên hệ giữa những tâm hồn trong cảnh đời đầy phiền muộn, không thể trở nên vô tình dù biết rằng cuộc gặp có thể đã không có duyên.

“Vì sao” là một trong những chuỗi bài thơ xuất sắc về tình yêu dưới ánh nắng chiều
“Vì sao” là một trong những chuỗi bài thơ xuất sắc về tình yêu dưới ánh nắng chiều

Đây mùa thu tới - In trong tập Thơ thơ (1938)

“Đây mùa thu” là một bài thơ tiêu biểu thể hiện đậm chất thơ và phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu. Được xuất bản vào năm 1938 trong tập “Những bài thơ thơ”, tác phẩm mở ra một bức tranh mùa thu rộng lớn và đẹp đẽ, đầy dấu ấn lãng mạn của tác giả. Khi cảnh vật dần phai nhòa theo thời gian, chúng mang một vẻ đẹp đượm buồn, chất chứa nhiều mộng mơ.

Cảm hứng sáng tác bài thơ đến từ rặng liễu bên bờ hồ với những cành lá mềm mại rủ xuống, gợi liên tưởng đến hình ảnh cô gái trẻ cúi đầu với mái tóc dài buông xõa và giọt nước mắt lặng lẽ rơi. Khung cảnh hiện lên thật mơ màng, đượm buồn và duyên dáng. Với tâm hồn tinh tế và nhạy cảm, tác giả đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên mùa thu ấn tượng và đặc sắc, phản ánh sự chuyển giao của đất trời.

Một số thông tin khác về Xuân Diệu

Phong cách sáng tác của Xuân Diệu luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc với sự vui tươi, tình yêu mãnh liệt đối với cuộc sống và con người. Mặc dù sự nghiệp thơ ca của ông nổi bật với những đặc trưng này, thông tin về cuộc đời của ông cũng thu hút sự quan tâm của nhiều người. Dưới đây là một số thông tin về Xuân Diệu có thể bạn chưa biết.

Phong cách sáng tác của Xuân Diệu luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc
Phong cách sáng tác của Xuân Diệu luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc

Xuân Diệu chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền thơ Pháp

Một số câu thơ của Xuân Diệu chịu ảnh hưởng từ nền thơ Pháp, đáng chú ý như:

  • Câu thơ “Yêu là chết trong lòng một ít” mượn cảm hứng từ câu của Edmond Haraucourt: “Partir, c’est mourir un peu” (Ra đi là chết một chút).
  • Đoạn thơ “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ/Em, em ơi, tình non đã già rồi” được lấy cảm hứng từ câu của Alfred de Musset nói với George Sand: “Dépêche-toi, George, notre amour est vieux” (Nhanh lên, George, tình yêu của chúng ta đã cũ).
  • Câu thơ “Hơn một loài hoa đã rụng cành” phản ánh ảnh hưởng từ câu của thơ Pháp: “Plus d’une espèce de fleurs a quitté les branches” (Hơn một loài hoa đã rời khỏi cành).

Xuân Diệu được mệnh danh là gì?

Xuân Diệu được mệnh danh là “Ông hoàng thơ tình” với những tác phẩm thơ ca đậm đà tình cảm và lôi cuốn. Sở dĩ ông được mệnh danh như vậy là vì Xuân Diệu đã dành phần lớn cuộc đời để khám phá và viết về tình yêu. Thơ của ông mở ra nhiều khía cạnh khác nhau từ góc nhìn của một người đang đắm chìm trong cảm xúc. Bên cạnh đó, các tác phẩm trữ tình của ông thường kết thúc với những kết quả không hoàn hảo, tạo nên cảm giác day dứt và nuối tiếc về những mối tình chưa trọn vẹn.

Tình bạn giữa Xuân Diệu và Huy Cận

Xuân Diệu và Huy Cận đều là người gốc Hà Tĩnh, họ đã trở thành những người bạn thân thiết khi gặp nhau. Bà Ngô Thị Xuân Như là vợ Huy Cận và cũng là em gái của Xuân Diệu. Mối quan hệ giữa Xuân Diệu và Huy Cận đã từng gây ra những nghi vấn trong các bài báo, với một số ý kiến cho rằng hai nhà thơ này là đồng tính, đặc biệt là khi họ đã sống chung trong nhiều năm. Những bài thơ như “Tình trai” của Xuân Diệu và “Ngủ chung” của Huy Cận được cho là đã khám phá đề tài này.

Xuân Diệu và Huy Cận đều là người gốc Hà Tĩnh, họ đã trở thành những người bạn thân thiết khi gặp nhau
Xuân Diệu và Huy Cận đều là người gốc Hà Tĩnh, họ đã trở thành những người bạn thân thiết khi gặp nhau

Năm 1993, qua hồi ký “Cát bụi chân ai”, nhà thơ Tô Hoài đã tiết lộ rằng Xuân Diệu từng trải qua giai đoạn dằn vặt khi phải che giấu sự thật về giới tính của mình và nỗi khổ tâm này đã không thể chia sẻ. Xuân Diệu từng bị kỷ luật vì vấn đề này. Tuy nhiên, một số bài thơ khác của ông, như “Em đi”, lại viết về nhà thơ Hoàng Cát. Tính chất của tình bạn giữa Xuân Diệu và Huy Cận vẫn còn là một bí ẩn chưa được lý giải.

Nhận định của nhà văn, nhà thơ khác về Xuân Diệu

Xuân Diệu luôn là một hệ tư tưởng cho các nhà văn, nhà thơ noi theo. Dưới đây là một số nhận định về ông:

  • Theo Nguyễn Đăng Điệp, hai phẩm chất nổi bật trong thơ Xuân Diệu là sự nồng nàn và trẻ trung. Thi phẩm "Vội vàng" là một trong những ví dụ điển hình thể hiện giọng điệu nồng nàn của ông.
  • Lê Tiến Dũng nhận xét rằng Xuân Diệu đã mang đến cho thơ ca dân tộc một cách nhìn mới, một bút pháp mới và một cảm xúc mới.
  • Chế Lan Viên từng nói: Xuân Diệu là cả một viện nghiên cứu văn học trong ông.
  • Nguyễn Tuân chia sẻ: Nhà thơ Xuân Diệu mất đi như mang theo một mảng đời văn của chính tôi.

Là một cây bút tài năng với những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam, Xuân Diệu xứng đáng được vinh danh là một nhà thơ vĩ đại và là tấm gương sáng để học hỏi. Di sản mà Xuân Diệu để lại cho thế hệ sau là tinh thần làm việc nghệ thuật chăm chỉ, tình yêu sâu sắc đối với con người và lòng chân thành với văn chương. Cho đến nay, thơ của ông vẫn tiếp tục thu hút và chinh phục các thế hệ độc giả.