Tác giả Nguyễn Đình Chiểu: Cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm tiêu biểu

Aretha Thu An
Tác giả Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam vào thế kỷ 19. Ông được biết đến với những tác phẩm tiêu biểu như Lục Vân Tiên, Dương Tử - Hà Mậu... Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu cũng được coi là một trong những nhà yêu nước tiêu biểu của thời kỳ này.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu 

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những danh nhân vĩ đại của văn học và văn hóa Việt Nam, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc qua những tác phẩm và hoạt động của mình.

Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu 

Nguyễn Đình Chiểu, tên tự là Mạch Trạch, hiệu là Trọng Phủ Hối Trai, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Xuất thân trong một gia đình nho học, cha ông là Nguyễn Đình Huy, một viên thư lại làm việc cho Dinh Tổng Trần Lê Văn Duyệt ở Gia Định.

Năm 1833, khi Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm thành Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu được cha đưa ra Huế để học tập. Khoảng năm 1840, ông trở về Nam. Đến năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu thi đỗ tú tài tại trường thi Gia Định.

Tuy nhiên, năm 1846, khi đang chuẩn bị cho kỳ thi tiếp theo ở Huế, ông nhận tin mẹ qua đời. Do đường sá xa xôi cộng với việc khóc nhiều vì quá đau buồn, ông bị mắc bệnh đau mắt nặng dẫn đến mất thị lực hoàn toàn. Mặc dù vậy, ông vẫn không chịu lùi bước trước số phận. Nguyễn Đình Chiểu sau đó về Gia Định mở trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo. Tiếng tăm "thầy Đồ Chiểu" bỗng chốc vang xa khắp miền lục tỉnh.

Khi thực dân Pháp tấn công Gia Định vào năm 1859, trong khi các quan lại triều đình hoảng sợ bỏ trốn, Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với nhân dân và các sĩ phu yêu nước đứng lên chống giặc. Dù không thể trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng ông tích cực tham gia bàn bạc kế hoạch và viết thơ để cổ vũ tinh thần chống giặc của nhân dân.

Khi Gia Định thất thủ, ông di chuyển qua Cần Giuộc, rồi đến Ba Tri (Bến Tre). Dù toàn bộ Nam Kì lục tỉnh rơi vào tay giặc, Nguyễn Đình Chiểu vẫn giữ vững tinh thần kiên cường, không bị mua chuộc bằng tiền bạc hay danh vọng. Ông tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút của mình cho đến hơi thở cuối cùng.

Nguyễn Đình Chiểu qua đời ngày 3 tháng 7 năm 1888 tại Ba Tri, Bến Tre. Đám tang của ông được rất đông học trò và nhân dân đến tiễn biệt, khiến cả cánh đồng Ba Tri phủ đầy khăn tang, thể hiện sự tiếc thương sâu sắc đối với người thầy giáo, nhà thơ và cũng là người con ưu tú của dân tộc.

Khu di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu hiện đang nằm tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Khu vực này từ lâu đã trở thành một điểm đến tâm linh quan trọng và là niềm tự hào của người dân địa phương. Đồng thờ là nơi tôn vinh nhà thơ yêu nước, thầy giáo mẫu mực và thầy thuốc tài năng với lòng nhân ái.

Nguyễn Đình Chiểu là vị thầy thuốc tài năng với tấm lòng nhân ái cao cả
Nguyễn Đình Chiểu là vị thầy thuốc tài năng với tấm lòng nhân ái cao cả

Sự nghiệp sáng tác 

Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là nhà thơ, nhà văn, nhà giáo dục lớn của dân tộc. Tuy cuộc đời gặp nhiều bất hạnh vì bị mù lòa, ông vẫn cống hiến cho nền văn học nước nhà những tác phẩm mang đậm giá trị nhân văn và tinh thần yêu nước.

Hầu hết các tác phẩm của ông đều được viết bằng chữ Nôm, để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học dân tộc. Các tác phẩm chính của ông bao gồm những truyện thơ dài như Lục Vân Tiên và Dương Tử-Hà Mậu, được hoàn thành trước khi thực dân Pháp xâm lược. Ngoài ra, ông còn viết một số tác phẩm mang nội dung tư tưởng, tình cảm nghệ thuật sâu sắc như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và Ngư tiều y thuật vấn đáp sau khi đất nước bị thực dân Pháp chiếm đóng.

Nguyễn Đình Chiểu để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam
Nguyễn Đình Chiểu để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam

Phong cách sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu

Tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ mang giá trị hiện thực sâu sắc mà còn thể hiện tư tưởng yêu nước, thương dân nồng nàn, cùng tinh thần bất khuất, kiên cường trước kẻ thù xâm lược. Ngòi bút sắc sảo của ông đã góp phần khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Đặc biệt, trong các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh lý tưởng là những con người nhân hậu, ngay thẳng, trung thành, dám đứng lên chống lại các thế lực tàn bạo để cứu độ nhân sinh.

Lòng yêu nước, thương dân luôn là chủ đề nổi bật trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Ông ghi lại những nỗi đau tột cùng cùng với tội ác của kẻ thù trong thời kỳ đất nước bị xâm lược thông qua “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Ông tố cáo bọn giặc độc ác và khuyến khích tinh thần chống giặc, ý chí cứu nước của nhân dân, đồng thời tôn vinh các anh hùng, nghĩa sĩ đã chiến đấu hi sinh vì tổ quốc trong Văn tế Trương Định và Kì Nhân Sư từ Ngư tiều y thuật vấn đáp.

Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Đình Chiểu sử dụng bút pháp trữ tình, mang đậm hơi thở của cuộc sống. Thơ văn của ông phản ánh rõ sắc thái Nam Bộ, với lối viết thiên về kể chuyện và có màu sắc diễn xướng. Các tác phẩm của ông không chỉ phong phú về nội dung mà còn đa dạng về hình thức, tạo nên một dấu ấn độc đáo trong kho tàng văn học dân tộc.

Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu 

Trong suốt 66 năm cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu đã cống hiến hết mình cho nghề dạy học, y học và sáng tác văn chương. Ông để lại dấu ấn sâu sắc với nhiều thể loại văn học, đặc biệt là truyện thơ và các bài văn tế.

Tác phẩm "Truyện Lục Vân Tiên"

Trong số các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, truyện thơ Lục Vân Tiên là tác phẩm nổi bật nhất, thể hiện triết lý và đạo nghĩa sâu sắc. Đây là tác phẩm đầu tay của tác giả, ca ngợi những giá trị tốt đẹp, đồng thời chỉ trích những tội ác xấu xa. Với 2.075 câu thơ, tác phẩm này sử dụng hình thức truyện kể văn vần, nổi bật với nhiều hình tượng nghệ thuật đẹp, nhờ vậy tác phẩm đã được nhân dân tiếp nhận một cách nồng nhiệt.

"Truyện Lục Vân Tiên" là tác phẩm thơ Nôm ra đời vào đầu những năm 50 của thế kỷ XIX. Tác phẩm đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người dân Nam Bộ, được coi như biểu tượng của tâm hồn miền Nam. Về mặt cấu trúc, truyện có kết cấu truyền thống của truyện phương Đông, chia theo chương hồi và tập trung vào cuộc đời của nhân vật chính.

Giá trị hiện thực: Tác phẩm phê phán mạnh mẽ những điều tiêu cực trong xã hội. Nó lên án các hành vi gian ác, bất công, chỉ trích những kẻ tráo trở, phản bội như cha con Võ Công hay những kẻ vô nhân đạo như Trịnh Hâm và Bùi Kiệm, cũng như những kẻ làm ăn lừa lọc, hãm hại dân lành.

Giá trị nhân đạo: Truyện đề cao các giá trị đạo đức và nhân văn:

  • Nhấn mạnh sự quan trọng của tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội như tình cha mẹ, nghĩa vợ chồng, tình bạn bè và lòng thương xót những người gặp khó khăn.
  • Tôn vinh tinh thần hiệp nghĩa, sẵn sàng giúp đỡ và bảo vệ người khác.
  • Thể hiện khát vọng về công lý và điều tốt đẹp trong cuộc sống thông qua kết thúc có hậu, nơi thiện luôn chiến thắng ác và chính nghĩa luôn thắng gian tà.

Giá trị nghệ thuật:

  • Tác giả đã xây dựng nhân vật dựa trên hành động, lời nói và cử chỉ, ít đi sâu vào mô tả ngoại hình hay nội tâm, để nhân vật tự bộc lộ bản chất. Cả hai nhân vật chính Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga đều được khắc họa với những phẩm chất đáng quý.
  • Ngôn ngữ trong truyện mộc mạc, bình dị, gần gũi với lời nói hàng ngày và mang đậm màu sắc địa phương Nam Bộ. Dù không quá tinh tế hay uyển chuyển, ngôn ngữ này phù hợp với phong cách kể chuyện, rất tự nhiên và dễ tiếp cận quần chúng.
  • Tác phẩm còn mang đậm nét văn hóa Nam Bộ cả về tính cách con người lẫn ngôn ngữ địa phương.

Tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc"

Hoàn cảnh sáng tác:

  • Tác phẩm được viết theo yêu cầu của Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định, nhằm tưởng nhớ những nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp tại Cần Giuộc vào đêm 16 tháng 12 năm 1861.

  • Ngay sau khi ra đời, bài văn tế nhanh chóng lan truyền khắp cả nước, gây xúc động mạnh mẽ trong lòng người.

Giá trị nội dung: Bài văn tế như một tượng đài ngôn từ, khắc họa hình ảnh những nghĩa sĩ nông dân vừa hào hùng vừa bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc ngoại xâm của dân tộc. Tượng đài này không chỉ là biểu tượng của một bi kịch lớn - bi kịch mất nước mà còn là dấu hiệu báo trước thời kỳ tăm tối của lịch sử dân tộc – thời kỳ một trăm năm Pháp thuộc. Tuy nhiên, trong bi kịch ấy, tinh thần quật khởi của nhân dân Nam Bộ nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung vẫn rực sáng, thể hiện qua lý tưởng cao đẹp của những nghĩa sĩ Cần Giuộc – những con người dám hy sinh vì nghĩa lớn, vì độc lập dân tộc.

Giá trị nghệ thuật

  • Tác phẩm chứa đựng chất trữ tình sâu sắc.

  • Sử dụng thủ pháp tương phản và cấu trúc của thể văn biền ngẫu.

Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu còn để lại nhiều tác phẩm đáng chú ý như Dương Từ-Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp và Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh. Ông là một trong những tác giả tiên phong trong việc chống thực dân, ca ngợi những người nông dân anh hùng chống giặc. Trong lĩnh vực y học, Ngư Tiều y thuật vấn đáp là tác phẩm tiêu biểu, tập hợp nhiều bài thuốc quý mà Nguyễn Đình Chiểu đã nghiên cứu và tổng hợp. Đây là một di sản giá trị, phản ánh sự tận tâm của ông trong việc cứu chữa bệnh nhân và đóng góp vào kho tàng y học nước nhà.

Với những công lao to lớn trong cả văn học và y học, Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng được vinh danh là một nhà văn hóa vĩ đại, nhà thơ yêu nước tiêu biểu, nhà giáo mẫu mực và là vị thầy thuốc tâm huyết nhất của dân tộc Việt Nam.

“Lục Vân Tiên” là một trong các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu 
“Lục Vân Tiên” là một trong các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu 

Nhận định về tác giả Nguyễn Đình Chiểu 

Như Giáo sư Lê Trí Viễn đã từng nhận xét: "Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hàng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc."

Nghệ thuật y khoa của Nguyễn Đình Chiểu là sự kết tinh từ hàng trăm bộ sách thuốc qua nhiều thế kỷ. Lòng yêu nước của ông có chiều sâu không chỉ ở mức độ cá nhân mà còn ở tầm vóc lịch sử dân tộc hàng ngàn năm. Cả hai yếu tố này đều được Nguyễn Đình Chiểu gói gọn trong một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một con đường dành cho những người yêu nước giữa thời kỳ đất nước lâm nguy.

Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để bày tỏ lòng yêu nước, mỗi vần thơ của ông như một vũ khí chống giặc ngoại xâm. Ông trở thành Thầy Đồ để nuôi dưỡng tinh thần “hào khí Đồng Nai,” giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ đất nước loạn lạc. Ông cũng theo đuổi nghề y với mục đích phục vụ nhân sinh. "Dù mù lòa nhưng ông đã sống trọn một đời sống con người với nhân cách trọn vẹn, một đời sống có văn hóa, biết tự hào dân tộc, biết liêm sỉ và tự trọng của một người trí thức chân chính, biết trân trọng phẩm giá của con người với đồng bào và giữ đúng tiết tháo của một kẻ sĩ."

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định ông là một nhân cách văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Những điều mà chúng ta học được từ cuộc đời và tác phẩm của ông là tinh thần yêu nước, thương dân, ý chí chiến đấu không khoan nhượng vì đạo lý, tinh thần vượt khó, sáng tạo nghệ thuật và sự học hỏi không ngừng. Nguyễn Đình Chiểu và di sản của ông không chỉ là niềm tự hào của người Việt Nam mà còn được bạn bè quốc tế biết đến và kính trọng.

Tầm ảnh hưởng của Nguyễn Đình Chiểu đến thế hệ sau

Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã gắn bó với tỉnh Bến Tre trong suốt 26 năm cuối đời và trong gần 200 năm qua, ông luôn được người dân Bến Tre coi là biểu tượng của vùng đất ba dãy cù lao.

Tài năng và nhân cách của ông trong thơ văn, nghề giáo và y học đã được UNESCO công nhận, tôn vinh ông là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới tại Kỳ họp Đại hội đồng lần thứ 41 diễn ra từ ngày 9 đến 24 tháng 11 năm 2021 tại Paris, Pháp. Khu lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu cũng được công nhận là Khu di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia 3 bởi chính phủ Việt Nam. Quần thể di tích này tọa lạc trên diện tích hơn 1,5 ha và đã được trùng tu lại vào năm 2000. Trong khuôn viên còn lưu giữ khu lăng mộ nguyên bản được xây dựng từ năm 1972. Công trình bao gồm các phần chính như cổng tam quan, nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ và khu mộ, tạo nên một không gian trang trọng, uy nghi.

Việc UNESCO vinh danh Nguyễn Đình Chiểu và tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông không chỉ là niềm tự hào lớn cho Việt Nam nói chung mà còn là vinh dự đặc biệt đối với tỉnh Bến Tre nói riêng. Để tôn vinh cũng như gìn giữ những giá trị tư tưởng và nhân cách cao đẹp của nhà thơ, nhà giáo, thầy thuốc yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, trong những năm qua, Đảng bộ cùng với nhân dân Bến Tre đã thực hiện nhiều hoạt động có ý nghĩa nhằm tri ân và nâng cao nhận thức của thế hệ con cháu sau này về những công lao, đóng góp to lớn của ông.

Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một nhân vật văn hóa quan trọng của đất nước mà còn là một tác giả để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học tư tưởng của dân tộc.

Tài năng và nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu đã được UNESCO công nhận, tôn vinh là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới
Tài năng và nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu đã được UNESCO công nhận, tôn vinh là Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới

Tổng kết lại, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một tác giả vĩ đại của văn học Việt Nam mà còn là một biểu tượng của lòng yêu nước và tinh thần nhân ái. Các tác phẩm của ông vẫn tiếp tục được thế hệ sau trân trọng đón nhận, góp phần bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho nhiều tầng lớp trong xã hội. Với những đóng góp to lớn trong nền văn học - giáo dục nước nhà, Nguyễn Đình Chiểu mãi là nhà thơ, nhà văn, nhà giáo dục được nhân dân kính trọng, yêu mến.