Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm Lai tân
Bài thơ Lai Tân không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là một bức tranh sinh động về xã hội đương thời. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa sâu xa của bài thơ, chúng ta cần tìm hiểu khái quát về tác giả và tác phẩm.
Soạn bài Lai tân phần tác giả
Khi soạn bài Lai tân, việc tìm hiểu về tác giả giúp chúng ta có cảm nhận sâu sắc hơn về hoàn cảnh sáng tác, nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Tác phẩm "Lai tân" là một trong những áng thơ tuyệt vời trong tập "Nhật kí trong tù" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh, sinh năm 1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, không chỉ là một nhà cách mạng tài ba, vị lãnh tụ tối cao của Cách mạng Việt Nam mà còn là một nhà văn, nhà thơ và là nhà văn hóa lớn. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi cũng như sáng tác nghệ thuật miệt mài, Bác đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và phong phú, bao gồm các thể loại như văn chính luận, truyện ký, thơ ca...
Các tác phẩm chính luận của Bác, như "Tuyên ngôn độc lập", "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", "Không có gì quý hơn độc lập tự do",... đã trở thành những tài liệu quý giá, định hướng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Bên cạnh đó, những áng thơ, những truyện ký của Bác còn thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, yêu nước sâu sắc và một phong cách nghệ thuật độc đáo, giàu tính nhân văn.
Soạn bài Lai tân phần tác phẩm
“Lai Tân” là một bài thơ thuộc thể loại thơ thất ngôn tứ tuyệt, nằm trong tập "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh. Tập thơ này bao gồm Lời đề từ và 133 bài thơ chữ Hán, được sáng tác trong thời gian Bác bị giam giữ và giải đi qua nhiều nhà tù của Quốc dân đảng tại Quảng Tây, Trung Quốc (từ 29/08/1942 đến 10/09/1943). "Lai Tân" là bài thơ số 96 trong tập thơ này.
Với phương thức biểu đạt chính là biểu cảm, bài thơ có bố cục gồm hai phần: ba câu đầu tự sự về hành vi thường thấy của ba viên quan ở Lai Tân, còn câu cuối là lời kết luận, nhận xét, đánh giá của tác giả.
Về giá trị nội dung, bài thơ miêu tả thực trạng thối nát của chính quyền Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch, thể hiện thái độ châm biếm, mỉa mai sâu cay của tác giả.
Về giá trị nghệ thuật, bài thơ sử dụng ngòi bút miêu tả giản dị, chân thực, lối viết mỉa mai sâu cay cùng bút pháp trào phúng. Khi soạn văn 8 bài Lai Tân, học sinh sẽ cảm nhận được sự tinh tế và sâu sắc trong cách Hồ Chí Minh phê phán những bất công, thối nát của chế độ đương thời.
Hướng dẫn soạn bài Lai tân lớp 8 chi tiết - Bộ sách Kết nối tri thức
Trong chương trình Ngữ văn lớp 8, bài Lai tân là một trong những tác phẩm tiêu biểu giúp các em học sinh hiểu rõ hơn về thể loại thơ trào phúng. Để hoàn thành tốt bài soạn này và đạt kết quả cao trong học tập, các em có thể tham khảo hướng dẫn chi tiết dưới đây.
Soạn bài Lai tân - Câu 1 (trang 86, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Bài thơ Lai Tân thuộc thể thơ nào? Nêu những dấu hiệu giúp em nhận biết được điều đó.
Gợi ý trả lời:
Khi soạn văn 8 Lai tân, bạn đọc thấy rõ bài thơ là một ví dụ điển hình của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật. Với 4 câu thơ, mỗi câu 7 chữ, bài thơ tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc về luật, niêm, vần và nhịp điệu của thể thơ này. Chẳng hạn, câu thơ "Lai Tân quan lại thật là tài" đã sử dụng luật trắc, niêm với câu tiếp theo và gieo vần chân. Nhịp điệu 2/2/3 của câu thơ tạo nên một âm điệu hài hước, châm biếm. Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ sự tinh tế trong cách sử dụng ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật của tác giả.
Soạn bài Lai tân - Câu 2 (trang 86, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Em hãy cho biết mục đích những việc thường làm của ban trưởng nhà giam và cảnh trưởng. Căn cứ vào đâu em khẳng định như vậy?
Gợi ý trả lời:
Khi phân tích bản phiên âm bài thơ "Lai Tân", ta dễ dàng nhận thấy mục đích hàng ngày của các nhân vật. Viên ban trưởng, với cụm từ "thiên thiên đố", đã phơi bày thói quen đánh bạc, sống buông thả. Trong khi đó, viên cảnh trưởng, với hành động "giải phạm tiền", bộc lộ bản chất tham nhũng, hống hách.
Qua những chi tiết này, Hồ Chí Minh đã sử dụng ngôn ngữ một cách tài tình để lên án gay gắt tình trạng tham nhũng, vô trách nhiệm của các quan lại trong nhà tù Lai Tân, đồng thời thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những người dân lao khổ.
Soạn bài Lai tân - Câu 3 (trang 86, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Phải chăng sau khi chê những thói xấu của ban trưởng và cảnh tưởng, tác giả muốn dành tặng lời khen cho huyện trưởng vì đã làm việc chăm chỉ? Em thử suy đoán huyện trưởng “chong đèn” để làm việc gì.
Gợi ý trả lời:
Sau khi chê bai những thói hư tật xấu của ban trưởng, cảnh trưởng, tác giả hoàn toàn không có ý định khen ngợi viên huyện trưởng. Trái lại, việc "chong đèn làm việc" của huyện trưởng chỉ là một màn kịch, một lớp vỏ bọc giả tạo để che đậy những hành vi xấu xa bên trong. Cụm từ "chong đèn" vốn gợi lên hình ảnh một người làm việc cần mẫn, tận tâm. Tuy nhiên, qua cách sử dụng từ ngữ mỉa mai, Hồ Chí Minh đã hé lộ sự thật đằng sau vẻ ngoài ấy.
Vậy, huyện trưởng "chong đèn" để làm gì? Thay vì làm việc vì dân, vì nước, huyện trưởng lại lợi dụng bóng đêm để thỏa mãn thú vui riêng, đó là hút thuốc phiện. Hành động này không chỉ thể hiện sự lười biếng, vô trách nhiệm mà còn bộc lộ bản chất đồi bại, sa đọa của một kẻ cầm quyền.
=> Việc "chong đèn làm việc" của huyện trưởng không phải là một hành động đáng khen ngợi mà là một sự mỉa mai, một cách thức để tác giả bóc trần bộ mặt thật của chế độ đương thời.
Soạn bài Lai tân - Câu 4 (trang 86, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Giọng điệu trào phúng của câu thơ thứ ba có gì khác biệt so với hai câu thơ đầu?
Gợi ý trả lời:
Hai câu thơ đầu có giọng điệu châm biếm sắc sảo, sử dụng từ ngữ thô mộc, suồng sã để đả kích.
Câu thơ thứ ba mang tính mỉa mai, châm biếm, tạo ra yếu tố phi lý hoặc thiếu logic, đảo lộn trật tự thông thường. Lời thơ dường như khen ngợi huyện trưởng làm việc chăm chỉ đến khuya, trái ngược hoàn toàn với hình ảnh của hai "cán bộ nhà nước" trong hai câu thơ trước.
Soạn bài Lai tân - Câu 5 (trang 86, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Các nhân vật trong bài thơ Lai Tân thuộc thành phần nào trong xã hội? Hãy làm rõ dụng ý của tác giả khi nhằm vào nhóm đối tượng này.
Gợi ý trả lời:
Các nhân vật trong bài thơ Lai Tân đều là công chức, viên chức thuộc bộ máy chính quyền, những người thuộc tầng lớp thống trị trong xã hội. Ý đồ của tác giả khi hướng tiếng cười trào phúng vào nhóm đối tượng này là để đả kích và tố cáo tình trạng mục nát, "nhà dột từ nóc" mà tác giả đã chứng kiến ở Lai Tân vào thời điểm đó.
Soạn bài Lai tân - Câu 6 (trang 86, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Theo em, nội dung câu kết có mẫu thuẫn với nội dung của các câu thơ trước không? Vì sao?
Gợi ý trả lời:
Nội dung câu kết mâu thuẫn với các câu thơ trước nhằm tạo tiếng cười châm biếm về bộ máy chính quyền Lai Tân thối nát và vô trách nhiệm. Cụ thể:
- Câu thơ thứ tư (câu hợp, câu kết) đã đưa ra một kết luận thâm thúy và đầy ý vị: "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình". "Thái bình" ở đâu khi mà ban trưởng vi phạm pháp luật (đánh bạc), còn cảnh trưởng chỉ lo tư lợi (kiếm ăn quanh). Đây chỉ có thể là sự thái bình giả tạo. Khi người đọc nhận ra mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài (thái bình) và thực chất (mục rỗng, thối nát) của xã hội, cũng là lúc tiếng cười trào phúng được thể hiện rõ ràng.
- Hai chữ "thái bình" ở cuối văn bản vì thế vừa miêu tả được vẻ bề ngoài tốt đẹp, bình yên giả tạo, vừa là cách nói ngược để tạo tiếng cười trào phúng, châm biếm nhẹ nhàng, sâu cay.
Soạn văn Lai tân - Phần bài tập liên hệ
Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) làm rõ chất trào phúng nhẹ nhàng mà sâu cay của bài thơ Lai Tân qua lời nhận xét: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”.
Gợi ý trả lời:
Bài thơ "Lai Tân" của Hồ Chí Minh nổi bật với chất trào phúng mạnh mẽ, lên án hiện thực xã hội Trung Quốc suy đồi, mục rữa thời đó. Qua tác phẩm, Hồ Chí Minh thể hiện sự châm biếm sâu sắc đối với những “con người” trong bộ máy cai trị ở Lai Tân. Nụ cười trào phúng của tác giả được thể hiện rõ qua cách ông mô tả bộ máy chính quyền ở Lai Tân, với một cách nói như vô tình rằng dù tình trạng như vậy, nơi đây vẫn "thái bình".
Tập "Nhật ký trong tù" phản ánh cái nhìn mỉa mai của tác giả qua cả hình thức nhật ký và thơ, mang đậm tính trữ tình, chiêm nghiệm. Bài thơ "Lai Tân" dùng hình ảnh ba nhân vật Ban trưởng, Cảnh trưởng và Huyện trưởng để đại diện cho những thói hư tật xấu cùng với sự mục nát trong xã hội Lai Tân thời bấy giờ. Những cảm xúc phẫn uất, uất ức trước tình trạng tù đày nghịch lý nhưng vẫn phải cam chịu được tác giả gửi gắm qua những câu thơ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc.
Qua việc soạn bài Lai Tân, chúng ta càng hiểu rõ hơn tài năng và tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao mà còn là một bằng chứng sinh động về tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc của Bác. Hình ảnh những viên quan tham nhũng, hống hách ở Lai Tân đã trở thành biểu tượng cho các thế lực xấu xa, phản động. "Lai Tân" mãi mãi là một bài học quý báu về đạo đức, công lý và tinh thần đấu tranh vì một cuộc sống tốt đẹp hơn.